Duy thức học là môn học về tâm bắt đầu từ nơi thức, nguyên do tâm chính là bản thể của thức và thức thì được phát sinh từ nơi tâm thể. Tâm thể nếu như không có thì nhất định không có thức và thức thì thuộc về sự tác dụng của tâm thể nên gọi là tâm thức. Nhưng tâm thức ở đây là chỉ cho tạng thức (thức Alaya) là một loại tâm thức có khả năng tàng trữ, xây dựng và bảo trì vạn pháp.
Duy thức học là môn triết học và cũng là môn tâm học. Duy thức học được gọi là môn triết học vì môn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sinh mà vạn hữu vũ trụ nhân sinh thì rộng lớn bao la không bờ bến và nguyên lý lại nằm trong lĩnh vực tính không, không có hiện hữu và lại còn phức tạp. Duy thức học cũng gọi là môn tâm học vì môn học này đứng trên lập trường tâm linh để lý giải vạn pháp mà tâm linh lại sinh hoạt không hiển lộ, khó đưa lên trên bình diện thực tại như khoa học vật lý, nhưng không thể thiếu mặt nó trong mọi sinh hoạt của vạn hữu vũ trụ nhân sinh.
Vì muốn định rõ giá trị sự cấu trúc đa dạng cũng như sự sinh hoạt của vạn hữu vũ trụ nhân sinh trên lĩnh vực tâm linh, Duy thức học thiết lập rất nhiều danh từ chuyên môn để minh giải tường tận mọi mặt từ sự tướng đến lý tánh, từ sai biệt cá thể đến tổ hợp tổng thể và từ cụ thể đơn giản đến chỗ thâm sâu bí ẩn. Trường hợp đây của duy thức học so sánh không khác khoa học vật lý, khoa học vật lý cũng có rất nhiều danh từ chuyên môn phức tạp và cũng không thể thiếu trong sự lý giải giá trị vật lý học.
Những người nghiên cứu duy thức học, nếu như không nắm được hệ thống tư tưởng của duy thức, lại gặp phải những danh từ chuyên môn đa dạng và phức tạp này thì dễ bị lạc vào rừng triết học không lối thoát và cũng sẽ bị lạc hướng nhận thức, phê phán sai lập trường của duy thức chủ trương. Muốn thông bác tư tưởng duy thức học, người nghiên cứu trước hết phải thấu triệt yếu nghĩa và giá trị danh từ chuyên môn triết học của nó, cũng như con người muốn trở thành bác sĩ y khoa nổi tiếng mọi mặt thì phải nằm lòng danh từ chuyên môn y học. Danh từ chuyên môn triết học của duy thức học mặc dù rất nhiều, đa dạng và phức tạp, nhưng diễn đạt không ngoài giải bày hệ thống tư tưởng của tâm linh trên bình diện cụ thể và ai nắm được hệ thống tư tưởng tâm linh chính là người thấu triệt được yếu nghĩa và mục đích của duy thức.
Để giúp đỡ những người yêu thích môn học duy thức sớm lĩnh hội được chiều sâu mục đích và hệ thống tư tưởng của môn học này diễn đạt, tôi xin trình bày tóm lược những điểm căn bản của nó với nhan đề là “Những yếu điểm của tư tưởng duy thức” ngỏ hầu dùng làm phương châm cho việc nghiên cứu. Quý vị nào sau khi nắm vững những yếu điểm của quyển sách đây trình bày, sẽ đi vào rừng tư tưởng của duy thức học khỏi bị bơ vơ và lạc hướng, nguyên vì bao nhiêu danh từ triết học mà nó sử dụng mặc dù phức tạp đến đâu, diễn tả cũng không ngoài những yếu điểm tư tưởng của tác phẩm nói trên. Quyển sách “Những yếu điểm của tư tưởng duy thức” đúng là cẩm nam giúp quý học giả không khó trong việc tham khảo và dễ dàng hướng dẫn mọi người thông đạt tư tưởng duy thức học. Ngưỡng mong các bậc cao minh duy thức học khi đọc qua tác phẩm này nhận thấy những chỗ khuyết điểm của nó kính xin chỉ bảo cho.
Cẩn bút,
Thích Thắng Hoan
I/ Định nghĩa:
1. Duy thức: Nghĩa là chỉ có sự hiểu biết là trên hết và cũng chỉ có sự hiểu biết mới đủ khả năng xây dựng vạn pháp thành hình tướng khác nhau.
2. Duy thức học: Nghĩa là môn học nhằm tìm hiểu nguồn gốc phát sinh ra sự hiểu biết. Theo nhà duy thức sự hiểu biết này phát sinh từ nơi tâm linh nên gọi là tâm thức.
3. Danh nghĩa duy thức tông: Những nhà tham học về môn duy thức đã làm cho môn này trở thành phong trào chuyên nghiệp, khai triển nguồn gốc sinh ra vạn pháp qua Duy thức biến hiện gọi là duy thức tông. Duy thức tông còn có tên khác nữa là pháp tướng tông.
a) Duy thức tông: Là tông phái chuyên môn nghiên cứu tâm thức thuộc chủ thể biến hiện vạn pháp từ đâu sinh ra. Theo duy thức tông, chủ thể biến hiện vạn pháp chính là tâm thức, nghĩa là không có tâm thức thì nhất định không có vạn pháp.
b) Pháp tướng tông: Là tông phái chuyên môn nghiên cứu vạn pháp thuộc đối tượng do tâm thức biến hiện từ đâu sinh ra.
Duy thức học là môn học về tâm bắt đầu từ nơi thức, nguyên do tâm chính là bản thể của thức và thức thì được phát sinh từ nơi tâm thể. Tâm thể nếu như không có thì nhất định không có thức và thức thì thuộc về sự tác dụng của tâm thể nên gọi là tâm thức. Nhưng tâm thức ở đây là chỉ cho tạng thức (thức Alaya) là một loại tâm thức có khả năng tàng trữ, xây dựng và bảo trì vạn pháp.
Mục đích của duy thức học là khai thác vạn pháp cũng như loài người từ đâu sinh ra và duy thức biến hiện bằng cách nào để biện minh lập trường nhận thức cho học thuyết duy thức.
Môn học duy thức đầu tiên bắt nguồn từ các bộ kinh do đức Phật Thích Ca giảng giải như: Kinh Lăng Già, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Giải Thâm Mật, Kinh Mật Nghiêm, Kinh Công Đức Trang Nghiêm,v.v... do các hàng đại Bồ Tát đắc pháp sáng tạo.
1. Bồ Tát Di Lặc (Maitreya): Là tổ đầu tiên duy thức học với bộ luận gọi là Du Già Sư Địa Luận (Yogàcàryabhùmi – sàstra), gồm 100 quyển, nhằm phát huy tư tưởng A Lại Da Duyên Khởi.
2. Bồ Tát Thế Thân (vào khoảng Thế Kỷ thứ IV và thứ V Tây Lịch): Là người thành lập tông phái duy thức gọi là duy thức tông với bộ luận Duy Thức Tam Thập Luận (Vidyàmàtrasi – dhi – tridasa – sàstra – kàrikà).
3. Ngài Huyền Trang đời Đường (vào khoảng thế kỷ thứ VII Tây lịch): Đắc pháp về môn duy thức với Ngài Giới Hiền tại Ấn Độ và về nước thành lập tông phái pháp tướng gọi là pháp tướng tông với tác phẩm Thành Duy Thức Luận.
Vạn pháp hiện có mặt trong thế gian với hình thức duyên sinh do duy thức biến hiện nhất định phải có thể tính của chúng làm nền tảng căn bản. Vạn pháp nếu như không có thể tính thì nhất định không có mặt trong thế gian. Theo nhà duy thức, vạn pháp hiện có mặt trong thế gian đều thuộc về phần tác dụng hiện tướng của thể tính. Muốn biết thể tính của vạn pháp như thế nào, người nghiên cứu nên bắt đầu khảo sát từ phần tác dụng hiện tướng trong thế gian để tìm ra nguyên lý chân thật của chúng. Nguyên tắc khảo sát theo duy thức học bằng phương pháp quy nạp (Induction) với công thức thể, tướng và dụng làm tiêu chuẩn cho việc nghiên cứu. Phương pháp quy nạp là phương pháp khởi điểm từ hiện tượng để khảo sát nguyên lý, từ hình tướng để để tìm ra thể tính, từ vọng động để hiển bày chân như. Còn ý nghĩa công thức thể, tướng và dụng được trình bày như sau:
1. Thể (State): Gọi cho đủ là bản thể, nghĩa là thể tính của vạn pháp, tức là nguồn gốc phát sinh ra vạn pháp. Vạn pháp được sinh thành nhất định phải có bản thể mới được tồn tại lâu dài và sự tồn tại của vạn pháp chính là nhờ sự đóng góp và sự có mặt của bản thể để duy trì sinh mệnh của vạn pháp. Bản thể của vạn pháp có hai loại: Thể tĩnh và thể động.
a) Thể tĩnh (Static state): Là thể tánh tĩnh lặng và thanh tịnh của vạn pháp. Đây là chỉ cho bản tánh của Tạng Như Lai. Bản tánh của Tạng Như Lai thì hoàn toàn tĩnh lặng và thanh tịnh không có chút nào biến động cả. Vạn pháp bám lấy Tạng Như Lai làm bản thể của mình đều được gọi là thế giới chân như pháp tánh tĩnh lặng và vạn pháp trong thế giới chân như pháp tánh thì thanh tịnh thường trụ bất diệt.
Vạn pháp trong thế giới chân như pháp tánh tất cả đều được phát sinh từ Tạng Như Lai do Tạng Như Lai ảnh hiện, nhờ Tạng Như Lai tàng trữ và bảo trì để tồn tại. Tạng Như Lai chính là nguồn thể trí tuệ của chân tâm và chọn lấy chân tâm làm bản tánh chân như của mình. Duy thức học gọi Tạng Như Lai là trí tuệ đại viên cảnh, Kinh Đại Bát Nhã gọi là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa, Luận Đại Thừa Khởi Tín và Kinh Lăng Già Tâm Ấn gọi là trí tướng của chân tâm. Tạng Như Lai chính là thể tánh tĩnh lặng và thanh tịnh cho nên vạn pháp thuộc thế giới chân như pháp tánh được phát sinh từ Tạng Như Lai đều được gọi là thế giới thuộc thể tĩnh.
b) Thể động (Dynamic state): Là thể tánh biến động của vạn pháp. Đây là chỉ cho bản tánh của tạng thức. Bản tánh của tạng thức thì biến động liên tục không ngừng nghỉ và sự biến động của thức này Duy thức học thí dụ cũng giống như dòng thác nước chảy xuống dốc (hằng chuyển như bọc lưu). Vạn pháp nào bám lấy tạng thức làm bản thể của mình đều được gọi là thế giới biến động. Thế giới biến động nghĩa là thế giới đó luôn luôn bị lưu chuyễn mãi không ngừng nghỉ và vạn pháp trong thế giới đó thì luôn luôn bị sinh diệt biến hóa luân hồi mãi không bao giờ chấm dứt. Vạn pháp trong thế giới thể động của Tạng thức chia làm hai loại: vạn pháp thuộc loại chủng tử và vạn pháp thuộc loại duyên khởi.
a) Vạn pháp thuộc loại chủng tử trong tạng thức, duy thức học gọi là vô chất tánh cảnh, nghĩa là những cảnh giới cả chánh báo và y báo trong ba cõi đều hoàn toàn không có tánh chất chân thật và những cảnh giới này chỉ toàn là hạt giống anh tử (Cause of illusions) và tập khí (Fetter of karma) của tất cả pháp ở trạng thái chủng tử trong thức thể A Lại Da, thường gọi là nhứt thiết chủng tử (Tất cả chủng tử). Trạng thái những chủng tử đó được thí dụ như sau:
Khi chúng ta đi hành hương hay đi du lịch các quốc gia mà chúng ta muốn, những thắng cảnh và những chứng tích lịch sử của các quốc gia đó kể cả những nhân sinh xuyên qua những nếp sống sinh hoạt, những tập tục đặc sắc,.v.v... đều được thu gọn thành những hạt giống nằm trong tâm thức A Lại Da của chúng ta. Chúng ta khi về nước muốn nhớ lại những hình ảnh đó, hoặc muốn viết lại những chứng tích đó đều được rút ra từ những hồ sơ ký ức hiện đang nằm trong tâm thức nói trên của mình. Tạng thức A Lại Da của chúng ta có khả năng tàng trữ và bảo trì muôn đời không bao giờ biến mất tất cả những hình ảnh ký ức đó bao gồm cả hạt giống hình ảnh thuộc cảnh giới y báo và hình ảnh nhân sinh thuộc chánh báo của các quốc gia mà chúng ta du lịch qua không nếu chúng ta không muốn xóa bỏ.
b) Vạn pháp thuộc loại duyên khởi, cũng gọi là vạn pháp thuộc duyên sinh. Duyên là quan hệ và khởi là sinh khởi, duyên khởi nghĩa là những chủng tử của vạn pháp quan hệ lẫn nhau để cùng sinh khởi. Tất cả hiện tượng có thể chất nghĩa là tất cả vạn pháp có sức sống trong thế gian đều được sinh khởi từ chủng tử và bám lấy chửng tử làm gốc rể của mình để trưởng thành, cũng giống như tất cả cây cỏ đều được sinh khởi từ hạt giống, bám lấy gốc rể của mình để nẩy nở phát triển và nếu như không có hạt giống thì nhất định không có cây cỏ góp mặt trong thế gian, các vật khác đều cũng như thế.
Một pháp có thể chất trong vạn pháp dù nhỏ như vi trần muốn duyên khởi cũng phải hội đủ bảy chủng tử làm nhân duyên quan hệ mới có thể góp mặt trong thế gian và nếu như thiếu một trong bảy chủng tử nói trên không thể sinh khởi. Bảy chủng tử gồm có: một là đất, hai là nước, ba là gió, bốn là lửa, năm là nghiệp lực, sáu là nghiệp tướng, bảy là thức A Lại Da. Bảy chủng tử này cũng gọi là bảy nguyên nhân và bảy nguyên nhân này duyên với nhau để thành hình tướng vạn pháp trong thế gian. Nhưng những chủng tử của hiện tượng vạn pháp thì lại bám lấy Tạng thức làm bản thể của mình mà bản chất của tạng thức thì biến động liên tục vô định cho nên hiện tượng vạn pháp được gọi là thế giới thuộc thể động.
2. Tướng (Form): Là hình tướng của vạn pháp, tức là chỉ cho tất cả hiện tượng vạn pháp có mặt trong thế gian. Hiện tượng vạn pháp trong thế gian đều được hình thành bởi nghiệp tướng. Nghiệp tướng là những mô hình kiến trúc (Constructional models) hoặc những Họa đồ kiểu mẫu (Blueprints) dùng để kiến tạo vạn pháp thành hình tướng trong thế gian. Tất cả nghiệp tướng hiện hữu trong thế gian chính là một trong bảy yếu tố nhằm để kiến trúc vạn pháp và cũng đều phát sinh từ những chủng tử của chính nó trong tạng thức thuộc thể động.
3. Dụng (Action): Là năng lực tác dụng của vạn pháp được phát sinh từ nơi thế giới chủng tử của chính chúng nó. Những năng lực này không có hình tướng, chỉ hiện hữu qua sự sinh hoạt của chúng sinh, như những sự tác dụng của các tâm thức, của các tâm sở tham, sân, si mê,.v.v... Chủng tử của những nghiệp lực này cũng đều bám lấy tạng thức thuộc thể động để sinh hoạt.
Các nhà duy thức căn cứ nơi tướng và dụng của vạn pháp duyên sinh mà khảo sát để tìm ra thể tánh chân thật của chúng nó trên lĩnh vực từ thể động đến thể tĩnh. Nhờ công thức này, các nhà duy thức đã chứng được duy thức tánh.
![]() |
Bình luận