Việc tu hành của người theo đạo Phật là nhằm tu sửa, thanh tịnh hoá Thân Tâm. Phật dạy Con Người do năm Uẩn hợp lại mà thành. Đó là Sắc Uẩn, Thọ Uẩn, Tưởng Uẩn, Hành Uẩn và Thức Uẩn. Sắc ở đây ám chỉ cơ thể của chúng ta, còn bốn uẩn kia hợp lại là Danh. Danh là một tên gọi khác của Tâm. Như vậy Sắc là vật chất nên có hình tướng, màu sắc, chúng ta có thể nhìn thấy và sờ mó được. Còn Tâm thì chỉ là ý niệm, khái niệm hay là trạng thái nên nó trừu tượng, không nhìn thấy, không va chạm được, thì làm sao sửa đổi hay thanh tịnh Tâm? Cho nên, nếu như chúng ta không hiểu rõ Tâm là gì thì rất khó mà tu tập.
Bạn đang xem: Ý Nghĩa Của Chữ Tâm Là Gì Theo Phật Giáo ), Tâm Trong Đạo Phật
Thỉnh thoảng chúng ta cũng có nghe người ta nói: "Ai tu gì thì tu, riêng tôi, tôi tu Tâm được rồi". Khi bạn bè rủ đi chùa hay đi tham dự một khoá tu học Phật giáo nào đó thì thối thoát: "Thôi chị đi đi, em ở nhà tu Tâm được rồi!". Khi có ai tặng mình một quyển kinh mời mình đọc, thì mình trả lời: "Thôi cuốn sách này dày quá, đọc không nổi đâu. Tui tu Tâm được rồi!". Nghe mọi người nói tu Tâm, nhưng chúng ta không hiểu tu Tâm là tu như thế nào?
Ngày xưa người ta nói "tâm là trái tim", chúng ta cũng nghĩ như vậy. Khi ta thương ai, ta hay vẽ hình trái tim, viết tên ta và tên người mình thương lên trái tim đó. Khi ta buồn, ta đau khổ, ta cũng vẽ hình trái tim nhưng có thêm mũi tên ghim vào, rồi vẽ thêm vài ba giọt máu rỉ ra từ vết thương. Lúc đó, ta cũng nghĩ "tâm là trái tim".
Người ta tin tưởng "tâm là trái tim" là tin tưởng theo truyền thống. Chứ thực ra Tâm của chúng ta chính là những sự suy nghĩ, những tình cảm, những thương nhớ, buồn khổ... Những thứ này có phải phát xuất từ trái tim không? Chắc chắn là không, bởi trái tim không biết suy nghĩ, nó chỉ có nhiệm vụ là co giãn từng nhịp nhanh hay chậm liên tục để bơm máu nuôi thân thể. Như vậy những buồn lo, hận thù, thương yêu, nhung nhớ kia ... xuất phát từ trong bộ não của chúng ta. Cho nên dứt khoát là Tâm nằm trong bộ não của con người!
Nói về bộ não, thì bộ óc con người có khả năng kỳ diệu giúp con người suy nghĩ, giao tế, học hỏi, đặt kế hoạch cho tương lai. Trong các loài vật, con người là sinh vật duy nhất có ngôn ngữ. Ngôn ngữ giúp con người học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, phát minh khoa học kỹ thuật tinh xảo, phục vụ tiện nghi đời sống của con người ngày một văn minh hiện đại hơn.
Vùng vỏ não là một phần của bộ óc mà chỉ riêng con người và một vài loài khỉ cấp cao mới có, nó được coi là nơi phát xuất ra trí thông minh giúp con người có khả năng kỳ diệu như trên.
Con người dù có khả năng chế ngự thiên nhiên và muôn loài nhưng vẫn chìm đắm trong đau khổ triền miên, bởi vì bên cạnh những khả năng xuất chúng đó con người cũng có khả năng tạo ra hận thù, giết chóc và tàn phá ở một mức độ cao nhất, hơn tất cả các loài thú khác.
Đức Phật khi thành đạo đã chứng ngộ được nguồn gốc sâu xa của đau khổ, và con đường đưa đến giải thoát những khổ đau đó. Ngày nay, chúng ta có thể đối chiếu những lời Phật dạy với những hiểu biết của Khoa học về não bộ để soi sáng con đường tu tập của chúng ta.
Theo kiến thức thông thường thì chúng ta "biết" qua suy nghĩ, tính toán, suy luận, phân biệt cái này với cái kia, người này với người nọ, phân biệt việc làm này đúng việc làm kia sai. Những cái biết này, chúng ta xử dụng hai cơ chế trong não bộ gọi là Ý Căn và Ý Thức.
Ý Căn và Ý Thức là hai cái Biết của Tâm Phàm Phu thường đưa tới phiền não, khổ đau. Nhưng trong mỗi con người, cũng còn có cái Biết khác, đó là cái Biết của Tánh Giác. Tánh Giác chính là Tánh Biết, là bản thể của con người, là cái Biết tự nhiên không cần học hỏi, còn gọi là cái Biết bẩm sinh, lúc nào cũng biết nên cái Biết này thường hằng không gián đoạn. Trong nhà Phật gọi đây là cái Biết của Tâm Bậc Thánh. Còn nhận thức biết siêu vượt ra ngoài thế gian, là trí Bát Nhã, là kho báu tâm linh phát xuất do thiền Định mà có, đó là nhận thức biết của Tâm Phật.
BA SẮC THÁI BIẾT
Trong phần này chúng tôi chủ ý đề cập đến tiểu đề "Ba sắc thái Biết". Đó là sắc thái Biết của Ý Căn, Ý Thức và Tánh Giác.
Thí dụ: Nghĩ tốt, nghĩ xấu, nghĩ thiện, nghĩ ác về một nhân vật nào đó. Từ những suy nghĩ liên miên của Ý Căn khởi lên những sắc thái vui, buồn, giận hờn, ghen ghét, gian tham, luyến ái .. v.v...
Đặc điểm của Ý Căn là dựa trên những tư tưởng cũ mà ta đã biết, đã học hỏi. Nó bươi móc những gì xảy ra trong quá khứ để suy nghĩ, suy luận... rồi sinh tâm buồn bực, chán ghét thù hận hay thương yêu tạo nên Ý Nghiệp.
Ý Căn liên hệ mật thiết với ngôn ngữ, đến sự nói thầm trong tâm. Tại vùng bán cầu não trái là vị trí của Ý Căn còn có một vùng Broca là vùng giải mã khái niệm, tức là ý niệm được chuyển sang ngôn ngữ, đưa qua cơ bắp lưỡi họng để phát âm thành lời.
Trong kinh gọi Ý Căn là Ý. Tiếng Pàli là Mano, tiếng Sanskrit là Manas. Còn Trí Năng nằm chung với Ý Căn ở bán cầu não trái phía tiền trán, trong kinh gọi là Tâm, tiếng Pàli và Sanskrit gọi chung là Citta. Tuy nhiên cả Ý Căn, Trí Năng và Ý Thức trong nhà Phật được gọi chung là Tâm (Citta).
2) Sắc thái Biết của Ý thức: Vị trí nằm ở vùng vỏ não, tiền trán, bán cầu não phải. Ý Thức là khả năng phân biệt đối tượng. Khi giác quan tiếp xúc với đối tượng thì Ý Thức là nơi nhận diện ra đối tượng. Ý Thức là trạng thái Biết luôn luôn dựa trên sự phân biệt, so sánh: Tốt xấu, phải trái, đúng sai, hay dở nên trong kinh gọi là Tâm Nhị nguyên. Ý Thức cần có đối tượng nó mới làm việc, nếu không đối tượng thì Ý Thức không khởi lên. Ý Thức cũng là nơi điều tra, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp để rồi cuối cùng đưa tới quyết định. Khi đã quyết định thì Ý Thức có một thúc đẩy mạnh mẽ là công bố thành lời hay hành động cho người khác biết. Do đó Ý Thức là nơi tạo nên Khẩu nghiệp và Thân nghiệp.
Ý Thức trong kinh gọi là Thức, tiếng Pàli là Vinnãna, tiếng Sanskrit là Vijnãna. Hai chữ này được bắt đầu bằng từ "Vi" nghĩa là "sự phân chia" hay "sự phân biệt". Còn từ "nãna" hay "jnãna" nghĩa là "biết". Do đó Ý Thức là cái Biết có sự phân biệt, so sánh.
Như vậy Ý Căn và Ý Thức có nhiều điểm giống nhau, nhưng cũng có đặc tính khác biệt. Đó là Ý Căn thích nói thầm trong não, trong khi Ý Thức thì sau khi nói thầm lại thích công bố, nói ra lời, thời bây giờ thì mau mau tung lên internet.
Xem thêm: đề kiểm tra 1 tiết toán 7 chương 1 đại số tự luận
3) Vùng kiến giải tổng quát: Chỉ có các nhà não học và tâm lý học hiện đại, khi khám phá ra vùng kiến giải tổng quát, nằm phía sau bán cầu não trái, mới nhìn thấy con người có cái biết thứ ba, họ gọi đó là vùng Ý Thức cao. Trong nhà Phật thì gọi là Tâm Bậc Thánh, Chân Tâm, Tánh Giác v.v...
TÂM TRONG ĐẠO PHẬT
Chúng ta có nhiều sắc thái Tâm khác nhau. Thí dụ, chúng ta nhìn dĩa trái cây này, chúng ta biết đó là trái cam, trái táo. Trái cam thì màu vàng, trái táo thì màu đỏ. Cái thấy biết trái cam màu vàng, trái táo màu đỏ, đó là Tâm. Cái Tâm nó biết. Thí dụ như chúng ta nhìn tôn tượng Phật, chúng ta thấy tượng Phật đẹp, thanh khiết, trong đầu chúng ta khởi ý kính trọng. Sự khởi ý kính trọng đó là Tâm. Cái Tâm kính trọng của chúng ta đối với tượng Phật.
Một thí dụ khác, chúng ta đi dự tiệc quen một người bạn mới, tự dưng chúng ta cảm thấy thích người đó. Về nhà chúng ta nhớ người đó. Một tháng sau cũng còn suy nghĩ không biết bây giờ người đó đang làm gì? Người đó có nghĩ đến ta chút nào không? Những suy nghĩ đó chính là Tâm. Tâm này là tâm nhớ nhung. Như vậy, hễ chúng ta giận thì đó là Tâm giận, chúng ta vui thì đó là Tâm vui, buồn thì đó là Tâm buồn.
Chúng ta tạm hiểu Tâm là gì rồi. Chúng ta chấp nhận Tâm chính là những trạng thái xảy ra trong đầu trong não của chúng ta. Do giác quan tiếp xúc với đối tượng bên ngoài nó khiến cho chúng ta nghĩ ngợi. Sự nghĩ ngợi ngay lúc đó chính là Tâm, hay chúng ta suy nghĩ những chuyện đã qua đó là Tâm.
Khi nói đến cái Tâm trong Phật giáo, thì trong mức độ đơn giản nhất, chúng ta chỉ cần nắm bắt 2 sắc thái Tâm khác nhau trong mỗi con người chúng ta.
Một sắc thái Tâm tạm đặt tên là Tâm Thế Gian còn gọi là Tâm Phàm Phu và một sắc Tâm thứ hai cao thượng hơn gọi là Tâm Bậc Thánh. Còn Tâm thứ ba là cái Tâm sâu sắc, hoàn hảo, trong sạch mà chúng ta thường nghe nhắc đến, đó là Tâm Phật.
1. TÂM PHÀM PHU
Tâm Phàm Phu là cái Tâm mà chúng ta thường sống hằng ngày với nó. Nó bắt nguồn từ sự suy nghĩ của ta. Mà khi chúng ta suy nghĩ thì bình thường phải nhờ các sự việc đã xảy ra trong quá khứ để mình suy nghĩ, bởi vì nếu không có chuyện gì xảy ra, không có đối tượng, thì lấy gì để suy nghĩ. Suy nghĩ là chức năng của Ý Căn. Vì Ý Căn dính mắc với quá khứ nên được xếp là Tâm Quá Khứ.
Còn khi trong buổi tiệc chúng ta gặp người bạn mới, chúng ta khởi ý thích người đó, có nghĩa là lúc đó giác quan của chúng ta tiếp xúc với đối tượng chúng ta khởi ý thích hay không thích thì đó là chức năng của Ý Thức. Không có đối tượng thì Ý Thức nằm yên không hoạt động. Gặp đối tượng thì nó khởi ý phân biệt, so sánh cái này đẹp cái kia xấu, phân biệt thiện ác, thương ghét, mới cũ v.v... Như vậy Tâm này dính mắc với đối tượng ngay trong hiện tại nên được xếp là Tâm Hiện Tại. Nó cũng thường được gọi là "Tâm hai bên" hay "Tâm nhị nguyên" là bởi chức năng của nó hay phân biệt, tìm hiểu, so sánh. So sánh rồi nó tuyên bố ra lời hoặc hành động tạo nên Khẩu nghiệp và Thân nghiệp. Còn Ý Căn thì tạo Ý nghiệp vì Ý Căn chỉ suy nghĩ trong đầu chứ chưa nói ra lời.
Trí Năng nhận dữ kiện của Ý Căn và Ý Thức, rồi suy luận vẻ vời tưởng tượng hướng đến tương lai sẽ như thế này như thế nọ hơn. Đó là dính mắc với tương lai, mà chưa chắc tương lai sẽ xảy ra đúng như sự tưởng tượng của mình, kinh Kim Cang xếp Trí Năng là Tâm Tương Lai vì nó luôn hướng về tương lai.
Ba cái nguồn Tâm Quá Khứ, Hiện Tại, Tương Lai này, Kinh Kim Cang gọi chung là "Tâm Ba Thời". Tâm Ba Thời bị xem là "bất khả đắc". Đắc là đắc ý, hài lòng, chấp nhận, bất là không. Bất khả đắc nghĩa là không thể chấp nhận được. Ba Tâm này không được chấp nhận, hẵn cũng có lý do. Cũng trong ý nghĩa không mấy được chào đón thân thiện, Thiền Tông gọi ba cái Tâm này là Vọng Tâm, Vọng Tưởng, Đức Phật thì gọi nó là Tâm Phàm Phu, là Hồ Nước Đục.
Còn chúng ta thì tạm gọi nó là Tâm Thế Gian cho dễ hiểu.
Tại sao là Tâm Thế Gian? Là tại chúng ta sống với nó hằng ngày, từ khi mới chập chững biết đi, chúng ta đã được cha mẹ dạy dỗ sống với nó. Lớn lên đến trường học chúng ta được thầy cô dạy chúng ta sống với nó. Khi ra ngoài xã hội chúng ta cũng đem ba cái Tâm này mà đối đãi với mọi người xung quanh.
Tóm lại, Tâm Thế Gian hay Tâm Phàm Phu gồm có 3 thành phần: Ý Căn, Ý Thức và Trí Năng. Chúng ta sống nhờ vào 3 Tâm này. Nhờ có Ý Căn mà chúng học hỏi được những kinh nghiệm sống từ lúc nhỏ cho đến lúc lớn khôn, lập gia đình, có con cái. Nhờ có Ý Thức, chúng ta thu nhập ghi nhớ những bài học ở trường, những bài học về hiện tượng thế gian, biết phân biệt được đúng sai, hay dở thiện ác tốt xấu. Nhờ có Trí Năng sắc bén, vẻ vời tạo nên những hình ảnh tương lai để hy vọng, để tiến lên.
Nhờ Tâm Thế Gian này mà chúng ta có thể tạo nên tiền tài, danh vọng, mưu cầu hạnh phúc cho vợ con, gia đình... Như vậy cái Tâm này hay lắm chứ không phải dở, thế tại sao trong nhà Phật lại gán cho nó là Vọng Tâm, là Tâm Ba Thời bất khả đắc, là Hồ Nước Đục?
Như đã kể ở trên Tâm Ba Thời cũng có phần ích lợi tích cực của nó. Nhờ có nó mà chúng ta mới tạo nên cuộc sống ấm êm hạnh phúc, có nhà ở, có xe đi, có cơm ăn, áo mặc, có danh vọng, địa vị trong xã hội. Nhưng để có những thứ đó thì chúng ta phải trả một giá rất đắc là Tâm chúng ta không lúc nào được an ổn vì phải lo nghĩ đối ngoại đối nội, Thân thì phải làm việc cực nhọc mệt mỏi. Luật sư, bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ, giáo sư, thư ký văn phòng, công nhân hãng xưởng, nghề tóc, nghề nail, hay ngành địa ốc hay giới thương mại. Làm nghề nào cũng vất vả cũng khổ tâm mới kiếm được đồng tiền để phục vụ cho đời sống. Đâu có ai nói rằng: "Tôi làm việc khoẻ lắm, không có gì phiền hà hay khó chịu. Chỉ chờ cuối tuần lãnh check hay tiền mặt về nhà tiêu xài thoải mái..."
Xem thêm: đề thi tuyển sinh lớp 10 môn toán bình dương
Tâm thế gian bị xếp là Vọng Tâm, bất khả đắc, là Hồ Nước Đục vì những niềm vui hạnh phúc do nó mang đến chỉ tạm thời, trong khi đó nó mang lại một hậu quả buồn phiền, dính mắc, khó chịu, bệnh hoạn, đau khổ triền miên mà thôi! Tại sao vậy? Tại vì Tâm Thế Gian là cái Tâm chưa biết con đường tu tập. Nếu chúng ta cứ mãi sống trong cái Tâm đó thì chúng ta sẽ trải qua nhiều trạng thái lúc vui, lúc buồn, lúc thương, lúc ghét, lúc oán, lúc thù... Tất cả những xúc cảm hay tình cảm đó... là chất xúc tác thúc đẩy cái Tâm của chúng ta lúc nào cũng dậy sóng. Tâm luôn bị vận hành theo sóng biển, khi lên khi xuống thì gọi là Tâm loạn động hay Tâm dính mắc. Nếu chúng ta cứ sống mãi trong Tâm này tất nhiên sẽ có ngày thân ngã bệnh. Những chứng bệnh về tâm thể như bệnh béo phì, áp suất máu cao, đường trong máu cao, cholesterol cao, nhẹ thì quên trước quên sau, nặng thì mất trí nhớ hay bệnh lú lẫn (Alzheimer) hoặc bệnh liệt run (Parkinson), bệnh ảo giác, bệnh trầm cảm (Stress) v.v... Đây là những căn bệnh thời đại, do bởi lo âu phiền muộn dính mắc từ công ăn việc làm và cuộc sống hằng ngày khiến cho Tâm bị dao động, rối loạn, gây ra những chứng bệnh trên thân. Bệnh này là do Tâm gây ra nên gọi là bệnh tâm thể. Nếu không kịp chận đứng nó sẽ đưa đến chứng ung thư mất mạng. Đó là về thân, còn về trí tuệ của mình thì chỉ là cái trí thế gian mà thôi.
Bình luận